Thứ Tư, 27 tháng 7, 2011

Bên ô cửa những toa tàu thời chiến





 



Có những hình ảnh vô cùng giản dị trong cuộc sống này nhưng làm tôi nhớ mãi như một nỗi buồn mơ hồ khôn nguôi, như một sự xúc động không bao giờ biến mất, như một nỗi ám ảnh mãi mãi... Một trong những hình ảnh ấy là ô cửa những con tàu thời chiến tranh....

Những con tàu ấy thường đi qua cánh đồng vào buổi chiều. Đó là lúc hoàng hôn đang phủ xuống những vòm cây, những mái nhà và những con đường. Khoảng thời gian ấy thường dâng lên trong lòng người một điều gì đó vừa xa xôi vừa gần gũi, vừa thổn thức vừa ám ảnh, vừa bất động vừa như muốn oà vỡ... Những lúc đó, tôi, thường đứng trên cánh đồng nhìn về phía con tàu. Và ở những ô cửa con tàu hiện lên những gương mặt người lính. Những gương mặt quá trẻ. Những gương mặt ấy chật cả ô cửa con tàu.

Ngày ấy, tôi chỉ biết những con tàu kia chở chật những người lính đi vào cuộc chiến tranh. Và ngày ấy, chiến tranh với tôi thật mơ hồ và chẳng có gì rành mạch. Tôi chỉ biết như một sự vô tình, những con tàu đi trong hoàng hôn về một nơi mà sau này tôi mới hiểu ra. Đó là một nơi mà máu đã đổ xuống không ngừng cho một nền hoà bình.

Nhưng thật lạ kỳ, những gương mặt người lính trẻ trung như mới bước qua tuổi thơ làm cho những ô cửa con tàu sáng bừng lên bởi những nụ cười. Tôi không biết ngày ấy khi bước chân lên con tàu đi về mặt trận, những người lính ấy có một lần nghĩ đến cái chết, có một lần nghĩ đến họ có thể không bao giờ trở về nữa không. Và cả khi con tàu chìm vào bóng tối trên cánh đồng chạy dọc con đường ra mặt trận, tôi vẫn thấy những ô cửa đó toả sáng. Những gương mặt trai trẻ ấy lấp lánh như những ngọn ngọn đèn trong những tháng năm chết chóc nhưng tâm hồn con người trong sáng lạ kỳ. Chính tâm hồn ấy đã thắp sáng những gương mặt đi qua máu chảy....

Có những đêm mùa hạ, lũ trẻ chúng tôi thường ra đê nằm hóng gió và ngủ lại cho tới gần sáng. Trong bóng tối mênh mông và đâu đó dội về những tiếng rền rĩ xa xôi. Có thể đó là tiếng sấm mưa của những đêm mùa hạ, có thể là tiếng bom. Nhưng vượt lên tất cả những âm thanh ấy là tiếng con tàu đi trong đêm. Hình như ngày nào tôi cũng thấy những con tàu chờ đầy những chàng trai, cô gái đi vào mặt trận. Những con tàu cứ đi, đi mãi như không bao giờ kết thúc. Trong những năm tháng ấy, mẹ tôi thường ngồi trên hiên nhà tới tận khuya và tôi thường nghe mẹ thốt lên: "Cứ thế này thì chở hết chúng nó đi chứ còn đứa nào nữa".

Quả thực, trong những năm tháng đó, người ta có lúc mang cảm giác làng, phố rỗng hết những người trẻ. Những con tàu ra đi và những tờ báo tử bay về. Vào những năm của thế kỷ trước, lúc đó tôi còn nhỏ quá. Bởi thế mà những tờ giấy báo tử chưa cứa đau vào trái tim chúng tôi.

Nhưng những buổi tiễn đưa trai làng ra mặt trận lại thường mang cho chúng tôi một niềm vui. Bởi trong những buổi tiễn đưa đó, bọn trẻ con chúng tôi được xem biểu diễn văn nghệ. Đội văn nghệ của làng hát những bài hát về đất nước và về chiến tranh. Rồi chúng tôi sẽ được ăn bánh kẹo. Đó là những dịp chúng tôi được ngậm mãi trong miệng những viên kẹo bi cứng như một viên sỏi. Chính vì thế mà nhiều lúc tôi lại sốt ruột hỏi mẹ xem bao giờ có người đi vào mặt trận để được ăn kẹo.

Sau này lớn lên, chúng tôi mới đau đớn nhận ra chúng tôi là những đứa trẻ vô tâm và đầy tội lỗi cho dù chẳng ai trách móc chúng tôi. Chúng tôi đâu biết rằng: được ăn thêm một viên kẹo bi thì có thể thêm một người con trai hay một người con gái của làng tôi ngã xuống vì trúng đạn. Sự thật là như thế. Sau này, cứ mỗi khi làng mang về một bộ hài cốt của một người lính đã hy sinh trong chiến tranh là tôi lại thấy những viên kẹo bi hiện về. Những viên kẹo bi nhuộm màu đỏ ối.

Sau năm 1975, người làng tôi đang làm đồng thường ngưng tay khi thấy những con tàu từ phía Nam trở về. Và trong những ô cửa con tàu lại hiện lên những gương mặt người lính. Nhưng những ô cửa đã vơi đi nhiều gương mặt và có những ô cửa trống rỗng. Ở đó chỉ là một khoảng tối sâu hút mà không có gì có thể lấp đầy được.

Biết bao người lính không bao giờ trở về. Mẹ tôi vẫn ngồi bên hiên nhà trong những đêm tối nhiều gió. Bà nói có những con tàu đã bay lên trời mang theo những chàng trai, cô gái bằng tuổi mấy đứa con lớn của bà. Và đêm nào bà cũng thức giấc bởi tiếng còi tàu chạy trên đường ray qua cánh đồng vọng về.

Những ngày ấy, ở ga Tía, thuộc huyện Thường Tín của Hà Nội mở rộng bây giờ, người ta thường thấy một người đàn bà mắc bệnh tâm thần. Ngày ngày bà lang thang trên sân ga. Cứ mỗi khi có một chuyến tàu dừng lại, bà lại hỏi những hành khách xem có ai thấy thằng Đức con bà đâu không? Đấy là một người lính đã xa mẹ mình năm 18 tuổi đi vào mặt trận. Ngày con đi, bà đã vay gạo để nấu một nồi cơm thật to cho con ăn vì từ lúc sinh ra cho đến lúc đó, con trai bà chưa một lần được ăn cơm thoả thích. Không biết tất cả những người lính lên đường đi vào mặt trận và đã trúng đạn có đều được ăn một bữa cơm thoả thích như con bà không?

Đứa con tên Đức của bà mẹ không bao giờ trở về. Bà mắc bệnh tâm thần không nhớ được gì mà chỉ nhớ duy nhất một điều. Đó là ngày đứa con bé bỏng của bà bước lên tàu đi vào mặt trận và không bao giờ trở về nữa. Có hàng trăm ngàn bà mẹ sau 35 năm chiến tranh kết thúc vẫn giật mình khi nghe tiếng còi tàu chạy qua cánh đồng làng mình. Và những bà mẹ ấy vẫn mơ một ngày đứa con bé bỏng của mình bước xuống tàu đi qua cánh đồng trở về nhà mình trong buổi hoàng hôn.

Có những người làng tôi đã nhìn thấy một người lính báo tử từ lâu bỗng trở về. Anh khoác ba lô đi trên con đường mọc đầy cỏ đuôi chó chạy qua cánh đồng. Họ nhận ra anh và gọi tên anh mừng vui khôn xiết. Nhưng anh chỉ mỉm cười mà không nói gì và đi về phía nhà mình. Chiều đi làm về, họ đến để chúc mừng mẹ anh vì anh đã sống sót trở về có lẽ vì báo tử nhầm. Nhưng chỉ có bà mẹ già sống trong ngôi nhà tre nứa từ ngày đứa con của mẹ ra đi. Không có một ai trở về ngôi nhà trong ngày hôm ấy. Cuối cùng họ kinh ngạc nhận ra rằng: không có một người lính nào trở về trong buổi chiều hôm ấy cả. Người lính trẻ ấy đã mất vào ngày 17 tháng 6 năm 1969.

Đó không phải là một câu chuyện hoang đường. Đó là một sự thật. Thật như một người lính trúng đạn ngã xuống dầm đìa máu và gọi một tiếng "mẹ ơi". Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang kể về con sông Thạch Hãn những năm chiến tranh. Trong đêm tối, hàng trăm người lính vượt sông trong làn mưa đạn. Nhiều người trúng đạn khi đang bơi giữa dòng. Họ chỉ kịp kêu lên một tiếng "mẹ ơi" rồi chìm xuống đáy sông vĩnh viễn. Có những đêm khốc liệt, trong đêm tối, người ta nghe cả dòng sông tối thẫm nhưng sôi sùng sục vì đạn bắn rền vang tiếng gọi "mẹ ơi" cho đến sáng.

Bây giờ, tuyến đường sắt vẫn chạy qua cánh đồng làng, những chuyến tàu vẫn ngày ngày đi qua và tiếng còi tàu dội lên lan xa mãi trên cánh đồng. Và như chẳng thể nào thay đổi, tôi vẫn thấy giữa những gương mặt hành khách là những gương mặt những người lính đã trúng đạn trên mặt trận. Gương mặt họ bay lơ lửng quanh ô cửa con tàu. Tôi biết đó là những hình ảnh ám ảnh tôi. Nhưng có lúc, tôi tin đó là sự thật mà tôi không lý giải được vì sao.

Tôi nghe có lần công an đường sắt phát hiện nhiều lần bên một ô cửa sổ con tàu có treo một chiếc áo lính thấm đầy máu. Lúc đầu họ nghĩ có một vụ án hay một vụ tai nạn nào đó. Nhưng cuối cùng họ không nhận được bất cứ thông tin về vụ tai nạn nào. Đặc biệt, cho dù những chiếc áo "vật chứng" ấy được bảo quản rất cẩn thận nhưng vẫn biến mất mà không ai biết lý do. Nhiều câu chuyện kỳ lạ trên những con tàu đã được kể lại như chuyện trong đêm khuya khi hành khách đang chập chờn giấc ngủ thì có một người lính trẻ ôm chiếc đàn mandolin ngồi lơ lửng trong toa tàu chơi đàn.

Chiến tranh đã đi rất xa, xa đến mức nhiều người lính không còn nghe thấy tiếng bom vọng trong một cơn mộng mị nào đó của mình. Nhưng hình ảnh những con tàu với những ô cửa chật những gương mặt đầy lông tơ di vào nơi máu chảy và hình ảnh mẹ tôi ngồi trên hiên nhà lo sợ những chuyến tàu sẽ mang hết những người trẻ của làng tôi đi mãi thì như vẫn còn đó. Những con tàu đó không bao giờ dừng lại. Những con tàu đi xuyên qua đời sống của những người mãi mãi nhớ về những năm tháng chiến tranh tàn khốc ấy. Chúng đi xuyên qua bữa ăn, xuyên qua giấc ngủ và xuyên qua cả chiếc giường chúng ta đang ân ái.

Mẹ tôi kể có lần người làng đã nhìn thấy một con tàu đi như trôi trên cánh đồng lúc nửa đêm. Và từ những ô cửa con tàu, những người lính trẻ như vừa rời khỏi tuổi thơ ùa ra gọi "mẹ ơi". Tiếng gọi như những ngọn gió lạ trong đêm thổi tràn qua làng cho đến tận khi trời sáng. Tất cả những câu chuyện này cho đến bây giờ tôi hoàn toàn tin là chuyện thật. Thật như bạn, như tôi cầm chiếc dao sắc xiết vào da thịt mình và thấy máu đỏ trào ra.

Phụ lục cho bài viết:

Bài thơ: Trong chiều nghĩa trang

Mẹ ơi mẹ về đi, chiều phủ kín hết rồi

Sông ngửa mặt lên trời thở từng hơi trắng

Ai gọi đò bơ phờ bến vắng

Mẹ về đi, gió lạnh, cỏ đầy sương

Mẹ run run thắp những nén hương

Cắm trước từng bia mộ

Kìa khói lên...

Khói lên....

Lặng lẽ

Những con đường cát trắng của làng quê

Hồn những chàng trai giờ ở nơi đâu

Nhìn thấy khói mà trở về với mẹ

Chim khách góc vườn mười mấy năm nói dối

Cau mười mấy năm trời vô ý trổ buồng đôi

Các anh về với mẹ một đêm thôi

Cho ngọn đèn dầu đỡ giật mình phụt tắt

Cho nồi cơm thêm một lần đầy đặn

Cho đũa trong nhà một bữa được so thêm

Các anh về không hóa được thành người

Thì xin hóa ngọn lửa cười trong bếp

Hóa chú cá con dưới cầu ao đợi mẹ

Hóa thạch sùng thưa mẹ gọi trong mơ

Chiều phủ kín hết rồi, gió lạnh thổi từng cơn

Trăm mắt hương - trăm mắt người hoe đỏ

Trong hoàng hôn hàng trăm bia mộ

Cùng dâng hương lặng lẽ đứng quanh người

Nghĩa trang làng Chùa, 1985

(Rút trong tập thơ Ngôi nhà tuổi 17, Nguyễn Quang Thiều, nxb Lao Động, 1990)





Như một nén hương thơm



Lời người bên sông




Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ



Đáy sông còn đó bạn tôi nằm


Có tuổi hai mươi thành sóng nước


Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm             





   Lê Bá Dương




Người gìn giữ kí ức

 
                    
  

Đọc hết chương một của cuốn truyện. Tôi ngước nhìn chiếc đồng hồ nhỏ trên bàn học,đã gần hai giờ sáng.Quyển truyện nặng dần trên tay,mắt bắt đầu díp lại.Tôi chìm dần vào giấc ngủ muộn. Và tôi đã mơ ,một giấc mơ kỳ lạ. Giấc mơ đưa tôi đến một khu rừng vắng lặng,âm u . Đang ngơ ngác lo sợ ,bỗng tôi giật bắn mình khi có tiếng người sau lưng hỏi khẽ :
“Bạn là ai ?đi đâu mà lạc vào đây thế này?”  . Hoảng hốt xoay hẳn người lại.Trước mặt tôi là một người lính .Khuôn mặt ưa nhìn ,có nét như dân trí thức,đôi mắt với ánh nhìn như muốn sưởi ấm người đối diện, nhưng buồn rất buồn…
Tôi nói : “ Em cũng không biết đây là đâu ? tại sao lại lạc đến đây? ”
Người lình thở dài và nói : “ Đây là Truông gọi hồn .Nơi chiến tranh diễn ra ác liệt nhất .Rất nhiều người lính đã ngã xuống nơi này” ."Vậy anh là ai ? Sao lại ở đây? "  Tôi hỏi. Người lính dõi mắt ra xa trả lời như đang nói với chính mình : “ Anh là Kiên, lính trinh sát thuộc tiểu đoàn 27 độc lập .Sau khi hòa bình .Anh đã trở về thành phố như bao người lính khác , nhưng dường như anh không thể hòa nhập,dù đã rất cố gắng.Thế là anh về lại đây. Trở thành người gìn giữ kí ức.”
Tôi theo chân Kiên đi sâu vào trong cánh rừng .Và như một thước phim, ký ức của anh dần hiện ra .


“ Thời tiết bấp bênh. Ngày nắng. Đêm mưa. Mưa nhỏ thôi, nhưng mưa... Mưa... Núi non nhạt nhòa, những nẻo xa mờ mịt. Cây rừng ướt át. Cảnh rừng lặng lẽ. Tối ngày đất rừng ngùn ngút bốc hơi. Biển hơi màu lục, ngụt mùi lá mục.
Và, cho tới tận những ngày đầu tháng Chạp tất thảy những ngả đường trong rừng vẫn còn đang lầy lội khốn khổ, hư nát, bị hòa bình bỏ hoang, hầu như không thể qua lại được, dần dần tụt chìm xuống, mất dấu tích giữa cây rừng cỏ tốt um tùm.
Hành trình trong điều kiện thời tiết như thế, đường sá như thế cực nhọc, vất vả không tả được. Chỉ có non năm chục cây số từ thung lũng hồ Cá Sấu ở đông Sa Thầy ngang qua huyện 67 về ngã ba Đồi thánh giá trên bờ tây Pô cô mà một chiếc Zil ba cầu vâm váp máy khỏe nhường ấy cật lực chạy cả ngày không nghỉ vẫn để lỡ độ đường. Phải mãi tối mới tới cửa truông Gọi Hồn. Xe đậu lại bên bờ một con suối rộng phủ đầy củi mục.
Người lái ngủ trong ca bin, còn Kiên lên thùng xe mắc võng nằm một mình. Nửa đêm mưa xuống. Một màn mờ mỏng, dịu như sương, êm lặng rơi hầu như không thành tiếng. Tấm bạt xe cũ nát lấm tấm dột. Nước mưa rỉ xuống thong thả rỏ giọt lên những bọc ni lông gói hài cốt tử sĩ xếp lát trên sàn xe. Không khí ẩm sánh lại, quánh ướt, từ từ lùa những ngón tay dài ngoằng lạnh toát vào bên trong bọc võng. Chảy rào rào buồn buồn, miên man như là dòng thời gian trôi thành tiếng, nghe nửa tỉnh nửa mơ. Cả trong lẫn ngoài giấc ngủ đều một đêm tối như bưng và mịt mùng hơi ẩm. Gió ướt rượi thở dài. Tự nhiên có cảm giác là tuồng như chiếc xe bỗng dưng rời chỗ, im lìm lăn bánh, chạy êm ru, không cần động cơ, không người cầm lái, một mình mộng du trên con đường rừng cô quạnh. Và âm thầm lẫn trong tiếng suối là tiếng thở dài của rừng sâu nghe vời vợi xa xôi và tuyệt mù hư ảo như là âm vang vọng lại từ một thời nào đó, nhuö là tiếng của làn lá vàng rơi trên thảm cỏ từ lâu lắm rồi...
. Chính là ở đây vào cuối mùa khô năm 69, mùa khô cực kỳ cùng khốn của toàn cõi B3, tiểu đoàn 27 độc lập, cái tiểu đoàn bất hạnh mà anh là một trong mười người may mắn còn được sống đã bị bao vây rồi bị tiêu diệt mất hoàn toàn phiên hiệu. Một trận đánh ghê rợn, độc ác bạo tàn...
Mùa khô ấy, nắng to gió lớn, rừng bị ướt đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục. Các đại đội đã tan tác đang cố co cụm, lại bị đánh tan tác. Tất cả bị na-pan (Bom na pan, bom lân tinh) tróc khỏi công sự, hóa cuồng, không lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy trong lưới đạn dày đặc, chết dúi ngã dụi vào biển lửa. Trên đầu trực thăng rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi, thân thể giập vỡ, tanh bành, phùn phụt phì hơi nóng.
" Thà chết không hàng. . . Anh em , thà chết . . . ? " - tiểu đoàn trưởng gào to, như điên, mặt tái dại, hốt hoảng hoa súng ngắn lên, và ngay trước mắt Kiên anh ta tự đọp vào đầu, phọt óc ra khỏi tai, Kiên líu lưỡi, kêu Oá Oá trong họng. Bọn Mỹ xông tới, tiểu liên kẹp bên sườn.
Đạn dày đặc tủa tới như đàn ong lửa. Kiên nấc to, buông súng ôm lấy một bên hông và khuỵu ngã; thong thả lăn từng vòng, từng vòng xuống lòng suối cạn, máu nóng hổi rưới đẫm bờ dốc thoải.
Những ngày sau đó quạ bay rợp trời, và sau khi bọn Mỹ rút thì mưa mùa ập xuống, lụt rừng. Bãi chiến trường biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm. Trên mặt nước lềnh bềnh xác người sấp ngửa, xác muông thú cháy thui, trương sình trôi lẫn với cành lá và những thân cây to nhỏ bị mảnh pháo băm. Khi lũ tan, mọi vật trồi ra dưới nắng lầy nhầy bọc trong lớp bùn đặc ghê tanh như thịt thối, Kiên lết dọc suối mồm và vết thương không ngừng nhỏ máu, thứ máu của xác chết, lạnh và nhớt. Rắn rết bò qua người anh. Thần chết sờ soạng.
Từ đó chẳng còn ai nhắc đến tiểu đoàn 27 nữa, mặc dù vô khối hồn ma ra đời trong trận bại vong ấy hiện vẫn lang thang khắp các xó xỉnh bụi bờ ven rừng, dọc suối chưa chịu chầu trời. Còn cái truông núi vô danh mịt mù lam chướng này thì từ bấy có tên là Gọi Hồn, cái tên nghe dựng cả tóc gáy. Đôi khi, có lẽ là vào những kỳ lễ lạt nào đó của giới các âm hồn, các toán quân đã chết của tiểu đoàn lại tụ họp trên trảng như là để điểm danh. Tiếng suối chảy, tiếng gió núi hú lên chính là tiếng nói của những hồn hoang binh lính mà người cõi dương ta thường nghe thấy và có thể thấu hiểu.

Kiên nghe kể đi đêm ở vùng này có thể nghe thấy chim chóc khóc than như người. Mà đúng là có loài chim như thế thật dù rằng chưa ai nhìn thấy chúng vì chúng chẳng hề bay mà chỉ một mực kêu thôi. Và tìm - khắp Tây Nguyên cũng không thể thấy ở đâu như ở đây các loại măng lại nhuốm một màu đỏ dễ sợ đến vậy, đỏ au như những tảng thịt ròng ròng máu. Còn đom đóm thì to kinh dị. Đã có người nom thấy những quầng sáng đom đóm lớn tày cái mũ cối, có khi hơn.
Ở đây khi trời tối cây cối hòa giọng với gió rên những bản nhạc ma. Và không một ai có thể quen được vì chẳng góc rừng nào giống góc rừng nào, chẳng tối nào như tối nào. Có lẽ là núi là rừng chứ không phải con người đã làm nảy sinh ra ở vùng này những huyền thoại rùng rợn, những truyền thuyết man rợ, nguyên thủy nhất về cuộc chiến tranh vừa qua. Nói chung những kẻ yếu bóng vía rất khó sống ở đây. Sống ở đây có thể điên lên hoặc chết rũ vì khiếp sợ. Chính vì thế nên vào mùa mưa năm 74 khi trung đoàn về náu quân ở vùng này, đám trinh sát bọn Kiên đã phải lo lập bàn thờ và bí mật tổ chức cầu khấn, cúng giỗ cho các hồn tiểu đoàn 27 còn tồn đọng trong truông. Lửa nhang ngày đêm lập lòe. Mà cũng còn phải kể tới hồn ma của các dân thường nữa. ở gần ngay chỗ chiếc Zil này đêm nay đang đỗ trước có dấu tích của con đường mòn dẫn vào làng Hủi. Hồi trung đoàn 3 về đây làng đã hoang tàn, tuyệt không một bóng người còn sống. Bệnh tật khủng khiếp và đói khổ triền miên đã tận diệt cuộc sống nơi đây. Tuy nhiên những linh hồn lở loét không manh áo che mình thì thấy bảo là vẫn đầy rẫy và vẫn không ngừng làm bốc lên mùi hôi thối trong tưởng tượng của mọi người. Trung đoàn đã cho người rưới xăng rồi phóng hỏa đốt sạch làng đó để diệt trùng tẩy uế, song lính ta vẫn rất hãi, không dám bén mảng tới gần vì sợ ma và sợ nhiễm hủi. Một hôm, Thịnh "con ! ở tiểu đoàn một đã liều mò tới đấy và giữa tro tàn của ngôi làng cậu ta đã bắn chết một con vượn rất to, phải bốn người kéo ra mới khiêng nổi con thú về chỗ lán của đội trinh sát. Nhưng, lạy Chúa tôi, đến khi ngả nó ra, cạo sạch được bộ lông thì ôi giời đất ôi, con vật hiện nguyên hình một mụ đàn bà béo xệ, da sùi lở nửa xám nửa trắng hếu, cặp mắt trợn ngược. Cả lũ bọn Kiên thất kinh, rú lên, ù té quẳng tiệt nồi niêu dao thớt. ở trung đoàn chẳng ai người ta tin chuyện đó, nhưng chuyện đó là có thật. Bọn Kiên đã chôn cất, đắp điếm tử tế mồ mả cho "người ấy", nhưng sự báo oán vẫn chẳng tránh được. Một thời gian sau, Thịnh "con" bị giết. Và lần lượt, kế tiếp nhau hầu hết trung đội đã bỏ mình. Còn sót lại có mình Kiên, như vậy đấy...
Thời ấy... thực ra thì mới chỉ năm ngoái đó thôi.
Mùa mưa, trước ngày hành quân xuống cánh Nam Tiến đánh Buôn Ma Thuột, trung đoàn 3 của Kiên hiện đã có gần cả hai tháng trời thả neo ở đây. So với hồi đó cảnh vật bây giờ chưa chắc có gì thay đổi, số cây trong rừng chưa thể kịp ít đi hay là nhiều hơn lên, và các lối mòn mà bọn anh từng hàng ngày qua lại vẫn chưa hoàn toàn bị cỏ dại của đáy rừng nuốt chửng. Hồi đó trinh sát chọn chỗ dựng lán ở ngay trên bờ con suối này nhưng dịch sâu vào trong rừng kia chừng mười phút nữa, nơi triền suối đụng phải chân núi, tẽ đôi, chảy dốc xuống theo hai lòng khe. Bây giờ chưa chừng tại cái ngã ba suối ấy cái "am cỏ" của bọn anh vẫn còn, lúp xúp mái gianh bên bờ nước giữa những vạt lau ướt lướt thướt. Hồi đó từ các cửa xanh, trung đoàn thu quân về hậu cứ để chỉnh huấn. Liên miên chính trị. Chính trị sáng, chính trị chiều, tối lại cũng chính trị... Ta thắng địch thua, miền Bắc được mùa, thế giới chia làm ba phe
rõ rệt. . . Tuy nhiên cánh trinh sát con cưng bao giờ cũng được nể vì, ít bị ốp học nên cũng có khối thì giờ để chơi bời, tranh thủ xả hơi trước khi trở lại vùng chiến. Đi săn, đặt bẫy, tổ chức dốc cá và tối tối thì chơi bài. Cả đời Kiên chưa khi nào máu mê cờ bạc như là hồi đó ở đây Bài bạc lu bù. Thường là cứ chập tối cơm xong bắt đầu ngả chiếu bạc. Trong bầu không khí ẩm rượt, nồng ngạt mùi mồ hôi và khét lẹt khói xông muỗi, các con bạc châu quanh cỗ bài, tơi bời đỏ đen.
Tiền đặt cửa thường là những tàu thuốc "đồng bào" hôi mù, cay cú hơn thì thuốc lào, đá lửa hoặc sợi hồng ma một thứ tiền ma túy - hoặc là lương khô và ảnh nữa, ảnh con gái các loại, bất kể gái tây hay gái ta, xấu hay đẹp, người yêu hay người dưng, dùng tuốt, dốc hết ra mà sát phạt. Chẳng còn gì ăn thua nữa thì quệt muội đèn, chơi trò bôi râu. Người đánh kẻ chầu rìa, vui vẻ, om sòm nhiều hôm thâu đêm. Tuồng như là một thời kỳ sung sướng, bình yên, nhàn cư, vô tư lự lắm vậy. Mà quả là cũng sung sướng thật, những ngày ấy trong gần suốt mùa mưa chẳng phải đánh đấm gì, cả trung đội mười ba đứa, vẫn còn đủ mặt. Kể cả Thịnh ! con! cũng phải sống ở đây đến hơn một tháng rồi mới bị giết. Can chưa đào ngũ. Rồi Vĩnh, Thịnh "nhớn", và Cừ, Oanh rồi Tạc "voi" nữa còn sống cả. Vậy mà bây giờ ngoài một cỗ bài sờn nát, quăn queo, lem nhem dấu tay của những người đã chết, Kiên chẳng còn có thêm một kỷ vật nào nữa về trung đội mình.
- Chín - Mười - Zi này ?
- Qui - Ka - át này!
Thỉnh thoảng anh vẫn mơ thấy chúng, những con bài ấy. Xướng lên và một mình đỏ đen với mình. "Con cơ này, con rô này, và đây con chuồn...". Bản hành khúc trung đoàn ca được lính tráng hát chệch lời đi - "đằng nào rồi cũng phăng teo, mạnh tay mạnh tay ta quật, vui chơi xả láng cóc cần...". CỖ bài được trang lần cuối, Kiên nhớ, khi trung đội chỉ còn lại bốn mống: Từ, Thanh, Vân và Kiên.
Ấy là buổi tinh mơ mờ đất, nửa giờ trước khi pháo cấp tập mở màn chiến dịch công phá Sài Gòn. Bên kia cánh đồng hoang ngập đầy cỏ Mỹ là tuyến phòng thủ Củ Chi. Bọn ngụy đang khởi động, cắc đoành nã cối và quờ quạng khua đại liên. Dưới các ngách hào và hố cá nhân bộ binh vẫn đang cố tận hưởng những hớp cuối cùng của giấc ngủ. Nhưng bốn tay trinh sát trung đoàn sắp sửa dẫn đầu phân đội mũi nhọn xung phong thì lại đang mải miết "tiến lên".
Chơi tà tà nhé, - Kiên đề nghị - nếu dở ván thì trời để cho cả bốn thằng sống qua trận này, để còn chơi tiếp.
- Khôn lỏi thế, - Thành nhăn răng cười - Trời có phải thằng ngốc đâu mà bịp. Cố tình đánh dở ván lão sẽ cho cả bốn thằng "chui xuống dưới đó" mà vặt lông nhau.
- Xuống cả làm gì bốn thằng, - Từ bảo - một mình tao ôm cỗ bài xuống là được. Sẽ đánh xì, hoặc sẽ tổ chức bói bài tây cho bọn quỉ sứ gác vạc dầu. Vui chán!
Sương mù như đột nhiên loãng tuệch ra. Pháo hiệu vụt lên không. Bộ binh rầm rập thức giấc. Xe tăng tiến ra tuyến xuất kích, tháp pháo lắc lư, xích nghiến nảy đất rung chuyển làn gió mai.
- Thôi, dẹp? - Kiên quăng bài xuống, và không nén nổi anh thốt lên dằn dỗi - đã bảo cố chơi chầm chậm cầu may, mà thằng quái nào cũng háu ăn thua?
- Ơ mà này? - Vân còm vỗ đùi la, vẻ hứng chí - Thế đếch nào mà mãi tới giờ tớ mới thấy khoái cái trò xì át cạc tê này chứ lị. Phải tập chơi cho ra trò mới được. Tao chết chúng mày nhớ liệng xuống hố cho nhau một cỗ bài nhé?
- Có mỗi một bộ mà nó đòi cả, gớm thật là lỏi quá đấy? - Thanh kêu lên giọng chìm đi trong tiếng đề pa của hàng chục họng tầm xa vừa đồng loạt gầm.
Sau đấy chừng nửa giờ Vân chết cháy cùng với chiếc T54 đầu đàn. Thân xác ra tro nên chẳng cần huyệt mộ. Còn Thanh thì chết ở Cầu Bông, và cũng bị thiêu trong quan tài thép cùng với tổ lái. Chỉ có Từ là đã cùng Kiên đánh đến cửa số 5 sân bay Tân Sơn Nhất rồi mới hy sinh.
Đêm 29 rạng ngày 30, khi hai thằng gặp nhau lần chót trên nóc nhà phở Tàu bay, Từ móc cỗ bài dưới đáy bồng ra trao cho Kiên.
- Thế nào tớ cũng ngỏm trận này. Vậy cậu giữ lấy. Còn sống trở về thì dùng nó mà đánh bạc với đời... Các quân hai, quân ba, quân bốn này chứa hồn thiêng của cả trung đội đấy, bọn tớ sẽ phù hộ cho cậu trăm trận trăm thắng. . .
Kiên lặng đi nhớ lại. Đêm nay hồn ai gọi hồn ai. Tiếng hú cất lên từ đâu đó trong rừng thẳm, âm u truyền dọc theo những gờ núi lạnh lẽo của truông Gọi Hồn. Cô đơn. Lạc lõng. Núi vẫn thế, rừng vẫn thế, suối sông cũng vẫn thế thôi, bởi có là bao một năm trời. Chỉ có điều hồi đó đang chiến tranh còn bây giờ trái lại, đã hòa bình rồi.”



Tôi thảng thốt ôm mặt, khóc không thành tiếng.So với những gì tôi biết, thì chiến tranh trong kí ức của Kiên quá tàn bạo và độc ác ,nó vượt ra ngoài sức chịu đựng của con người.
 Kiên đặt nhẹ tay lên vai tôi .Anh nói : "Chiến tranh đã lùi xa mãi mãi rồi em ạ .Đây chỉ còn là những kí ức không thể xóa mờ của Rừng già và cả những người lính như anh. Anh nhờ em. Khi quay về hãy nói với mọi người .Để có những tháng ngày bình yên như hôm nay chúng ta đã phải đánh đổi những gì ,và xin mọi người hãy sống sao cho thật xứng đáng với những mất mát đau thương của các anh hùng liệt sĩ".


 Tôi choàng tỉnh khi nghe tiếng chuông báo thức . Người ướt đẫm mồi hôi và nước mắt .Quyển "nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh vẫn cầm trên tay .Ngoài kia nắng ngập tràn, một ngày mới bắt đầu ……
        




  DT


* Bài viết có sử dụng tư liệu trong chương 1 cuốn tiểu thuyết (NỖI BUỒN CHIẾN TRANH) của nv Bảo Ninh.